Đăng bởi: Ngô Minh | 22.01.2015

XUÂN HOÀNG, THƠ DÂNG MIỀN GIÓ CÁT…

NHÂN NGÀY GIỖ LẦN THỨ 10 NHÀ THƠ XUÂN HOÀNG (24/1/2OO4-24/1/2015)

XUÂN HOÀNG, THƠ DÂNG MIỀN GIÓ CÁT…

XUÂN HOÀNG, THƠ DÂNG MIỀN GIÓ CÁT…

   Ngô Minh 

           1.Chiều mùng ba Tết Giáp Thân, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật từ Đồng Hới điện báo cho tôi tin buồn : Nhà thơ Xuân Hoàng mất rồi! Ôi, anh ra đi ở tận Sài Gòn, làm sao chạy tới thắp  nén hương tưởng niệm ! Thế là tôi đành ngồi lục tất cả các tác phẩm của anh ra lật dở từng trang . Cuốn sách nào anh cũng đề tặng với nét chữ bay bướm, thân thuộc:” Thân mến tặng Ngô Minh & Tâm và các cháu” . Đối với anh em làm thơ Quảng Bình , Xuân Hoàng vừa là người anh cả , vừa là một mẫu thi sĩ đào hoa, đam mê, chỉ biết có thơ, thơ và …  thơ !

                Cái chất thi sĩ ấy thể hiện hàng ngày trong cách đọc thơ, trong điệu cười hả hả rung mắt kính của anh . Tôi còn nhớ, hồi chống Mỹ, Xuân Hoàng , lúc đó là Hội trưởng Hội Văn nghệ Quảng Bình dẫn nhà thơ Anh Thơ về làng tôi, làng Thượng Luật, xã Ngư Thủy có Đại đội nữ pháo binh anh hùng . Tôi lúc đó là học trò trường làng, mê thơ, nên nghe có các nhà thơ là chạy theo “để xem”. Thầy giáo tôi bảo, người cao cao, đeo kính cận ấy là nhà thơ Xuân Hoàng. Nhà thơ vừa đi dọc mép sóng vừa sang sảng đọc cho chị Anh Thơ nghe bài thơ viết về Ngư Thủy, mới được đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân Đội :” …Cha chuyền cho con, chồng chuyền cho vợ / Khẩu súng trường bóng loáng tiếp tay trao…”. Đọc xong, Xuân Hoàng cười hả hả, rồi đột ngột véo vào tay chị Anh Thơ một cái làm nữ thi sĩ đau điếng, rồi hỏi rất  thơ trẻ:” Có mới không ? Có xúc động không?…” . Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi về Xuân Hoàng. Sau này được sống gần gũi anh suốt 13 năm Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên ở Huế, tôi hàng trăm lần  lần nghe anh đọc thơ, hàng trăm lầm “bị” anh véo vào sườn, vào đùi đau điếng, cũng hàng trăm lần nghe anh hỏi hồn nhiên :” Hay không ? Mới không ?”. Giai thoại kể rằng , có lần , trong một cuộc rượu , Xuân Hoàng ngồi bên một  nữ thi sĩ  , khi  anh đọc thơ xong , hứng lên, anh véo một cái vào đùi , làm nữ thi sĩ kêu ré kên :” Anh làm cái gì thế !”. Mọi người biết “ tật véo” của Xuân Hoàng , cười rũ ra. Còn Xuân Hoàng thì đỏ mặt, líu ríu xin lỗi :” Mình lộn , mình lộn…!”. Lần ấy tôi theo xe của Hội Văn nghệ Quảng Bình đi Đại Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ tư. Ngồi ghế trước là anh Tranh lái xe và anh Xuân Hoàng. Hàng ghế sau là tôi , Hoàng Vũ Thuật và Nguyễn Văn Dinh. Dọc đường , Xuân Hoàng say sưa đọc thơ. Rồi anh bỗng véo thật mạnh vào đùi anh Tranh, làm xe đảo tay lái, xuýt nữa xe lao xuống ruộng !

              2.Trong trí nhớ bộn bề của nhiều thế hệ độc giả mỗi khi ngang qua  “khúc ruột miền Trung” “Bình Trị Thiên khói lửa” từ hai cuộc kháng chiến đến nay, bao giờ cũng có vài câu thơ Xuân Hoàng ,: “ Chợ Bố Trạch sắn nhiều gạo ít /  Nâu Ba Rền  củ tốt hơn khoai”,

                               Ta sẽ về xây Đồng Hới quê ta

                                Sẽ lại trồng hoa trên lối cũ

                                Hoa thược dược cứ đến mùa lại nở

                                Vàng huân chương trong mỗi sân nhà

Hay :  “ Chiều chia tay cũng là chiều gió bấc / Anh bạc đầu theo những cánh hoa lau!”.v.v…Vâng, Xuân Hoàng trọn đời thơ dâng miền gió cát, trọn đời thơ xưng tụng tình yêu , xưng tụng xứ sở !

            Nhà thơ Xuân Hoàng tên thật là Nguyễn Đức Hoàng , tham gia cách mạng từ năm 20 tuổi ( 1945) với công việc dạy học, làm văn nghệ ở Quảng Bình , Liên khu 4 .Thời gian này anh được  dự lớp bồi dưỡng cán bộ văn hóa văn nghệ do Đoàn Văn nghệ kháng chiếm Liên khu 4 tổ chức trong ba năm liền 1947, 1948, 1949. Sau đó  anh lặn lội đi khắp chiến trường Bố Trạch, Sông Gianh, Cảnh Dương, Đồng Hới… viết báo, làm thơ động viên kháng chiến . Anh là Hội viên Hội  Nhà văn Việt Nam lứa đầu tiên ( 1957) . Năm 1959, anh về công tác ở Nhà xuất bản Văn học  với cương vị Trưởng phòng biên tập Văn học hiện đại. Năm 1963, theo lời đề nghị của Tỉnh ủy và  Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, anh rời Thủ đô Hà Nội, đưa vợ con về  Quảng Bình để xây dựng Hội văn nghệ địa phương. Mấy chục năm liền anh làm lãnh đạo Hội, chăm lo tận tận cho phong trào sáng tác và từng tác giả trẻ .Từ đó thơ anh ngày càng máu thịt với  với mảnh đất cơ hàn và đạn bom khốc liệt này. Cũng từ đó anh trở thành người anh cả góp công lớn  bồi dưỡng, vun đắp nên  lực lượng sáng tác văn nghệ Quảng Bình  sung sức  với những tên tuổi được cả nước mến mộ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Trần Nhật Thu, Hoàng Vũ Thuật, Hải Kỳ, Nguyễn Khắc Phê, Trần Công Tấn, Văn Lợi , Hữu Phương, Mai Văn Hoan v.v.. Anh như cây cột trụ của ngôi nhà Văn nghệ Quảng Bình, mà một thời, các nhà văn trẻ dựa vào đó để mà tồn tại và đi tới.

                Tám mươi tuổi, Xuân Hoàng có 60 năm dấn thân vì cách mạng, 60 năm yêu , 60 năm nhớ, 60 năm thơ dâng miền gió cát . Cho đến khi qua đời anh đã cho xuất bản 15 tập thơ, 4 tập bút ký, hồi ký, trong đó có nhiều tập sách có tiếng vang như các tập thơ Biển bà bờ , Quãng cách và lặng in, Thơ tình gửi Huế hay hồi ký Âm vang thời chưa xa . Anh đã nhận được giải thưởng về thơ của Đoàn Văn nghệ kháng chiến Liên khu 4, giải thưởng Văn học Bình Trị Thiên, tặng thưởng của Uíy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1996 cho tập hồi ký Âm vang thời chưa xa . Nhưng, có lẽ “giaií thưởng thơ” lớn nhất của anh là những bài thơ khảm vào trí nhớ, hay được chép cẩn thận vào sổ tay của nhiều thế hệ thanh niên  Quảng Bình  như Đồng Hới , Biển và bờ, Trăng Trường Sơn, Hoa chua me đất, Con tàu trắng, Khi nào thấy, Tự biết….

Khi tóc anh bạc rồi

 Em là hoa me đất

 Nở trong chiều xa lắc

 Tím hồng màu thời gian…( Hoa chua me đất)

            Xuân Hoàng là thi sĩ đậm chất ngất ngư tang bồng, là nhà thơ trẻ thơ, hồn nhiên nhất trong các nhà thơ miền Trung mà tôi từng biết. Nàng thơ, bạn thơ nhắn nhe ở đâu , dù thật xa xôi, anh cũng lặn lội tìm đến ! Gặp bạn bè ở đâu, câu trước câu sau đã thấy anh đọc thơ sang sảng. Đọc xong  cười hả hả , véo mạnh vào tay, vào vai, vào đùi  làm người ngồi nghe bên cạnh đau điếng,   Hình như suốt đời anh không giận ai, mà cũng chẳng ai giận anh. Cũng chẳng bận tâm nhiều đến chức tước, quyền lợi. Tổ chức phân công công việc thì anh làm hết lòng . Khi không phân công thì anh mừng hớn hở  vì  được nhiều thời gian để đi , để viết, để đọc thơ cho mọi người nghe. Xuân Hoàng làm thơ rất nhanh và nhạy. Nhưng anh cũng suy nghĩ rất nghiêm túc , rất trăn trở với thơ. Anh giận “ thơ mình chưa vút một đường bay”. Anh tâm sự :” Tôi vẫn đuổi bắt thơ suốt đời như đuổi bắt một vẻ đẹp vĩnh hằng ở trước mắt mà rất khó bắt.”. Khi phát biểu quan niệm về sáng tạo văn học, anh thường  giải bày với lớp trẻ chúng tôi :” … phải đấu tranh không ngừng để nhận thức ra được chính mình thông qua sự nhânû thức thiên nhiên và xã hội ( quy luật sinh tồn) để mỗi ngày một vươn lên đến sự tự hoàn thiện là yếu tố hàng đầu , đóng một vai trò quan trọng và cơ bản đối với công việc sáng tác.”.

               Những bài thơ anh viết  vào  thời kỳ đổi mới , nhất là sau thời kỳ chia tỉnh, anh phải xa Huế , thật chiêm nghiệm  và  trầm lắng phận người :

                                      Mắt không thấy rõ nữa rồi

                                      Thì thu con mắt nhìn đời vào trong

                                      Người rồi về với hư không

                                        Thì thôi, xin khỏi bận vòng trầm luân

                                                                                             ( Tự biết)

 

           3.Trong hành trang tâm hồn tôi, có rất nhiều câu thơ về chiến tranh mà lay động, thấm dẫm tình yêu xứ sở của Xuân Hoàng : Em đi phố nhỏ động cành dừa / Đồng Hới về khuya gió đêm ngả lạnh  …Phố nhỏ quê ta thức nhiều kỷ niệm / Dạ lan hương thơm ngững canh dài / Em đi nhé, bóng em lồng bóng biển / Bài thơ lành em đến ngủ bên vai  ( Đồng Hới). Hay những câu thơ tình đẹp như tranh :

 Nếu cần nữa tôi là hồ trên núi

 Trong hoang vu im lặng ngắm mây trời

 Em hãy đến chim thiên nga cánh mỏi

 Đậu yên lành trên gương mặt hồ tôi.

                                                                      ( Khi nào thấy)

              Trong hành trang tâm hồn tôi còn có rất nhiều kỷ niệm  về nhà thơ Xuân Hoàng đào hoa , đãng trí. Có lần anh gọi tôi tới nhà để nghe thơ mới . Thấy lâu lâu vắng anh, tôi hỏi. Anh tủm tỉm cười rồi đọc một câu thơ :” Chừng lâu rượu chẳng về chai”. Thấy tôi ngớ ra. Anh giải thích :” lâu chai là Lai Châu đó, mình vừa đi Lai Châu về, có nhiều thơ hay lắm. Trên đó có cô giáo dạy thể dục mà rất say thơ mình, viết thư về. Thế là mình “mò “ lên ngay , sướng không, sướng không ?”. Nói rồi, anh ghé vào tai tôi :” Mình vừa về đến Huế đã nhận được hai lá thư của nàng. Thắm thiết lắm. Nhưng Ngô Minh không được nói với ai nhé !”. Dặn tôi như thế nhưng anh lại hồn nhiên kể với rất nhiều người ! Một lần khác, anh bảo tôi:” Mai , giữa buổi sáng , mình dẫn người bạn đến thăm cậu nhé”. Thế là mai tôi cáo ốm, nghỉ việc cơ quan , ở nhà chờ. Đến hẹn anh đến với một cô Tôn Nữ làm thơ từ La Chữ vào. Qua thái độ hai người tôi biết ngay là “kết” rồi..Tôi lịch sự xin phép vào phòng trong đóng cửa làm việc, để dành phòng ngoài cho “anh chị” tâm sự. Hai người say sưa đọc thơ tình tặng nhau đến gần hai đồng hồ . Khi chia tay, tôi hỏi nhỏ Xuân Hoàng :” Chị Bình đã biết chưa ?”. Chị Bình là vợ anh Xuân Hoàng, lúc đó là Phó chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh. Xuân Hoàng  thực thà:” Bà ấy biết hết, biết hết , biết cả cô “Lâu Chai” nữa, nhưng bà ấy “ tha” tất !” Nói rồi anh lại cười ha hả, véo vài vai tôi , rồi lột kính chùi chùi có vẻ  ngây thơ  lắm !

          Sau này, tôi mới biết, chị Bình yêu chồng, hiểu chồng, thương chồng, nên mỗi khi buồn bực, đau khổ, chị lại âm thầm làm thơ với bút danh Hoài Thi :… sự thật kinh hoàng không dám gọi lên thôi / mà hai ta có thể nào hành khất…”. Năm 1998, dù đã 74 tuổi, do dồn hết tâm huyết viết hai tập hồi ký ngàn trang “ Âm vang thời chưa xa” nên sức khỏe anh sụt hẳn đi, mắt mờ. Thế mà một buổi chiều từ nhà riêng ở Phường 18 , quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, anh trốn chị Bình, mò lên tàu hỏa mua vé ra Huế! Anh bắt tôi chở  đi thăm lại” di sản tình yêu” của mình . Một căn phòng tập thể trên đường Đống Đa, một gốc thông già trên đồi  Thiên An , cây bàng góc phố…Anh đứng lặng người  , tay sờ lên “từng hiện vật”, mắt chớp rưng rưng. Nhìn anh bần thần trước “cảnh cũ, người xưa” tôi thắt lòng nhận ra quỹ thời gian còn lại của anh  rất ít , mà  anh là con người luôn khát khao tươi trẻ! Đó là đợt thăm Huế cuối cùng của anh. Ở thành phố Hồ Chí Minh, sáng ra chị Bình không thấy chồng, hốt hoảng gọiü điện thoại cho bạn bè khắp nơi, gọi ra cả Đồng Hới, vẫn không có. Thế là chị tức tốc mua vé tàu đi Huế…Vì biết Xuân Hoàng rất nặng tình với Huế ! Tìm được anh, chị lại nghe anh đọc những bài thơ mới, rồi lại “hả hả điệu cười rung mắt kính”, rồi lại hỏi “ Hay không ? mới không ?”

            Xuân Hoàng đi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ bằng thơ, xây dựng quê hương đất nước cũng bằng thơ , yêu bằng thơ, ngồi đứng với ai bất cứ ở đâu cũng có thể đọc thơ…Một lần tôi đi tàu chợ cùng anh từ Đồng Hới vào Huế,  tôi chỉ quay sang  nói quyện với người bên cạnh một chút, quay lại đã thấy anh sang đọc thơ sang sảng cho mấy cô gái trẻ ngồi ở hàng ghế rất xa nghe. Bắt chuyện, chinh phục người đẹp bằng thơ là biệt tài của Xuân Hoàng. Dường như trên đời này ngoài thơ ra , anh không biết việc gì khác. Trong việc nhà anh không biết lọ đường pha cà phê để ở đâu. Thời bao cấp, mấy cô  hành chính Hội Văn nghệ đến nhà để hỏi trích ngang con cái để kê khai tem phiếu, anh kêu bé Nhật Lệ đến hỏi :” Con sinh ngày mô ?”. Một lần  anh đi họp Hà Nội, chị Bình dặn khi về nhớ mua một cân tỏi khô. Khi về bao nhiêu áo quần, sách sổ anh bỏ vào ba lô  khoác trên lưng, còn cầm khư khư cân tỏi khô trên tay, như sợ nó bay mất. Lúc đó trời lụt, phải lội qua con suối mới đến nhà. Anh giơ túm tỏi khô lên trời cho khỏi ướt . Anh về hớn hở khoe với vợ, còn ba lô quần áo, sách vở thì ướt sũng mà anh không hề biết!  Một lần anh đưa bé Nhật Lệ đến Bệnh viện Trung ương Huế để khám bệnh. Khi con gái út đang ở trong phòng khám, anh gặp một người yêu thơ. Thế là cả hai kéo nhau ra quán cà phê ngồi đọc thơ. Anh đọc thơ, cười hả đến nỗi quên mất là mình đang chở con đi khám bệnh. Trưa, anh đạp xe về nhà. Chị Bình hỏi :” Thế con Lệ mô rồi ?”. “ Chết tôi rồi !“, lúc đó anh mới nhớ ra, tất tưởi quay xe đạp đến bệnh viện tìm con. Bé Nhật Lệ cứ đứng ở cổng bệnh viện đợi ba, khóc đến  đỏ hoe mắt.

            Gần anh Xuân Hoàng  ai cũng bị lôi cuốn bởi lối đọc thơ sang sảng, bởi những cú véo đau điếng, bởi điệu cười ha hả . 60 năm cầm bút đi theo cách mạng anh đã để lại cho đời 15 tập thơ, 4 tập truyện ký, hồi ký. Quan trọng hơn , anh đã lăn lộn trong mưa bom bão đạn mấy chục năm trời để xây dựng nên một đội ngũ nhà văn Quảng Bình rất sung sức . Quảng Bình là tỉnh nghèo về kinh tế , nhưng Quảng Bình là “tỉnh giàu” về người cầm bút viết văn, làm thơ ! Công đó có phần đóng góp không nhỏ của nhà thơ Xuân Hoàng. Vào tuổi 70, dù bị nhiều thứ bệnh nan y, anh vẫn thanh thản “ Tự biết”:

                                      Mắt không thấy rõ nữa rồi !

                                      Buồn vui xin gửi xa vời bóng mây

                                      Bâng quơ mấy khúc vơi đầy

                                      Gửi mai sau, đợi cái ngày ra đi !

                                      Thảnh thơi ngày tháng “vô vi”

                                      Cuối cùng là cuộc chia ly nhẹ nhàng

            Anh Xuân Hoàng ơi, những câu thơ buồn lắm, nhưng em lại nghe như anh vừa đọc xong, hả hả điệu cười rung mắt kính… Anh ra đi vào dịp Tết Nguyên Đán , là mùa trời đất sôi động, trẻ trung như tính nết của anh. Có lẽ anh đã chọn ngày đi như vậy vì không muốn làm phiền muộn mọi người ! Nhưng làm sao mà không buồn trống vắng khi không còn nghe giọng đọc thơ sang sảng và điệu cười ha hả thân thuộc của anh vang trên sóng biển Đồng Hới ngày nào…

 

 MỜI ĐỌC THÊM THƠ NGÔ MINH TẶNG NHÀ THƠ XUÂN HOÀNG

NGÔ MINH

THƠ KHÔNG CÙNG TUỔI

Thơ mừng lục tuần nhà thơ Xuán Hoàng

 

những bài thơ không cùng tuổi anh

dẫu trọn đời bên nhau ấm lạnh

mái tóc bạc như lau trên đỉnh nắng

cơn ho nào gõ cửa mùa đông

chuyện lương tiền bèo nước áo cơm

xe tuột xích trên đường công vụ

anh cúi sửa… và bao nhiêu nữa

thơ cứ đầy từng giọt nhỏ buồn vui…

 

 

những bài thơ không cùng tuổi anh

thơ thao thức như mới vào tuổi lớn

trước sợi rong mềm trước con tàu trắng

bên lối nhỏ loài hoa me đất

trước biển bao điều xanh ngăn ngắt

Nhật Lê cánh buồm vầng mấy ngũ sắc

sóng giận hờn ca hát sóng nghịch chơi…

 

 

những bài thơ không cùng tuổi anh

thơ vụng về nụ cười thứ nhất

thơ lẩy bẩy nụ hôn thứ nhất

màu áo đỏ cháy trong mưa bất chợt

trận bom rung cát đổ xám trang thơ

buồn vui có màu còn nước mắt trọng

đều lăn xuống môi người vị mặn

 

 

hạnh phúc hiếm hoi

chân trời xa thẳm

xin đừng uống mừng tuổi nhà thơ

hãy cạn chén mứng thơ không tuổi !

                        

                              Huế, 15/11/1985


Chuyên mục

%d người thích bài này: