ĐỌC BỘ SÁCH ” NGÔ MINH TÁC PHẨM”, TẬP 2:
TRÁI TIM TRẦN QUANG LONG
Ngô Minh
Nhà thơ Trần Quang Long
Mới 25 tuổi, Trần Quang Long đã có bài thơ “ Thưa Mẹ, Trái tim” nổi tiếng , nổ vang như súng trận :
Con sẽ vót nhọn thơ thành chông
Xuyên vào gan lũ giặc
…Nếu thơ con bất lực
Con xin nguyện trọn đời
Dùng chính quả tim làm trái phá
Sống chết một lần thôi !
Con người “sống chết một lần thôi” ấy đã trải qua bao nhiêu lần bị địch bắt bớ giam cầm vẫn cháy bừng lý tưởng sống vì dân vì nước. Bài viết này xin được cung cấp thêm vài chi tiết về cuộc đời hoạt động sôi nổi của nhà thơ, mà chắc chắn nhiều người chưa được biết.
Họa sĩ Nguyễn Hữu Ngô, ở Huế, bạn rất thân của Trần Quang Long, vợ là Trần Thị Kiên Trinh, em gái của Long , kể rằng, bố Long thường đặt tên tất cả con gái của mình là “Liên”. Riêng cô em thứ 12 này, Long đã xin phép được đặt tên là Kiên Trinh. Đó chính là lời nguyện của Long khi chọn con đường dấn thân vì Tổ Quốc! Ông bà Trần Quang Minh quê ở Bát Tràng, Hà Nội vào định cư làm ăn và sinh Trần Quang Long ở Huế ngày 6-2-1941. Trần Quang Long làm thơ từ năm học lớp đệ nhất (lớp 12) Trường Quốc học Huế. Những bài thơ “học trò” lúc ấy đã chứng tỏ khả năng thơ tinh tế của Long : Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón...hay Bước nhẹ nghe em kẻo động vỡ tơ chiều… ( Nghiêng nón). Năm 1962, Long vào lớp Việt văn, Đại học Sư phạm Huế. Thời đó, sinh viên sư phạm ở miền Nam danh giá lắm, là ngành học duy nhất bậc đại học có học bổng 2000 đồng /tháng ( tiền Sài Gòn lúc đó, 2000 đồng có thể mua 2 tấn gạo hoặc có thể nuôi được hai người trong cả tháng), thế mà chàng sinh viên này chẳng mấy chí thú học hành, chỉ thích yêu đương, làm thơ và tranh đấu. Khi đang học đại học, Trần Quang Long đã đi giang hồ suốt từ Huế, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Vũng Tàu, Sài Gòn… Đi đến đâu anh cũng yêu và có thơ tình tặng các nàng :” Thôi trả cho em tình yêu thần thánh …/ Trọn đời anh nào dám nói yêu ai / Vòng tay rộng thôi cũng đành hoang vắng..”
Khi yêu Quỳnh Như, anh dạy học ở Cần Thơ, chị ở Sài Gòn, tuần nào cũng thăm nhau, thế mà hình như tuần nào Long cũng viết thư cho Ngọc ( tên ở nhà của Quỳnh Như). Đến nay gia đình còn lưu giữ hơn 50 bức thư của Long, có bức dài đến năm sáu trang giấy A4, với nét chữ bay bướm. Những bức thư tình nồng nàn, chất chứa trí tuệ ấy có thể in thành tập sách hấp dẫn !
5 năm (1963 -1968) mới thật sự là giai đoạn dấn thân quyết liệt của Long. 5 năm ngắn ngủi, nhưng là thời gian rực sáng trên vòm trời tuổi trẻ miền Nam “xuống đường” của “ngôi sao” Trần Quang Long ! Anh làm thơ, đấu tranh, diễn thuyết, ra sách báo, bị bắt tù, thả ra lại đấu tranh, diễn thuyết! Đêm Phật Đản 1963, Long theo Tin Lành, nhưng cũng dắt bạn gái xuống bờ sông Hương xem thả đèn mừng Phật. Đến cầu Trường Tiền, chứng kiến cảnh lính Ngô Đình Diệm đàn áp dã man tín đồ Phật giáo , thế là Long cùng lực lượng sinh viên Phật Tử chống Diệm từ đó! Anh là Trưởng Ban báo chí của Tổng Hội sinh viên Huế, chủ trương ra tạp chí “Đất mới”, sáng lập ra nhóm “ Nhóm thanh niên chống xa hoa phóng đãng” và “Quán bạn”. Đây là các tổ chức đấu tranh của sinh viên .
Tháng 8-1963, Trần Quang Long bị địch bắt . Bọn chúng cho một mục sư đến nhà giam bảo anh ký vào tờ cam đoan để được bảo lãnh về với gia đình. Nhìn tờ cam đoan có câu “… chúng tôi trẻ người non dạ, bị Việt Cộng lợi dụng…”, Long từ chối ký tên ! Đến cuối năm Diệm bị giết anh mới được tha. Ra tù, anh tiếp tục ra các tờ báo và biên tập các tập thơ “Sinh viên Huế”,“Đất mới”,“Dân” (1964) . Anh Nguyễn Hữu Ngô kể, có đợt ra Quảng Trị , Long đã đến đầu cầu Hiền Lương, đăm đắm nhìn lá cờ Tổ Quốc to lớn bay trên đỉnh cột cờ bờ Bắc. Anh vội bảo anh Hữu Ngô và Hoàng Phủ Ngọc Tường chụp cho tấm ảnh mình đang đứng dưới lá Cờ đỏ sao vàng ở bên kia giới tuyến !
Năm 1964, khi sắp tốt nghiệp đại học, Long lại bị bắt vô tù lần nữa vì bài thơ “ Hồi kết cuộc” đăng trên tờ Dân số 3. Bài thơ phản đối trò “triễn lãm xác Việt Cộng” của tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh quân đoàn I ngụy: “ Những tử thi ngổn ngang / Không còn nhìn ra mặt / Cũng không có áo quần /… Bà mẹ già chống gậy / Nước mắt chảy hai hàng...”. Địch cho rằng, tác giả bài thơ “ Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Việt Cộng ”!. Gia đình phải bán ngôi nhà ở đường Hàng Bè để “lo lót” cho Long ra tù để thi tốt nghiệp đại học ! Năm 1965, Trần Quang Long gia nhập Hội Liên Hiệp Thanh niên Giải phóng Trung Trung Bộ. Anh được đưa vào vùng giải phóng Điện Bàn, Quảng Nam tập huấn một thời gian rồi trở về Huế.
Cuối năm 1965, tốt nghiệp Đại học, Trần Quang Long vào dạy học tại Trường Trung học Cường Để, Quy Nhơn. Tại đây, anh vừa dạy học vừa thảo truyền đơn, viết biểu ngữ chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình . Tổ chức cho cả ngàn sinh viên học sinh đi biểu tình và thành lập “ Lực lượng bảo vệ Dân tộc Bình Định ” do anh làm chủ tịch. Cuộc đấu tranh của tuổi trẻ Quy Nhơn bị đàn áp dã man.Trần Quang Long bị chúng dùng báng súng đánh gãy chân. Đêm đó, 119 thầy giáo và học sinh Quy Nhơn bị bắt. Trước khi vào tù, một học sinh Trường Bồ Đề đã cởi chiếc áo trắng đầy máu me đang mặc trên người đưa cho thầy Long đề bài thơ bốn câu ca ngợi tinh thần đấu tranh của học sinh. Chiếc áo có bài thơ đẫm máu chuyền tay nhau , tất cả đều ký tên xung quanh. Có một cựu học sinh Trường Bồ Đề ở Quy Nhơn, tham gia đấu tranh thời đó đã giữ tấm áo hoen máu, đầy chữ ký của thầy trò Trần Quang Long ấy suốt 40 năm, đến năm 2005, ông mới trao lại cho Bảo tàng cách mạng tỉnh Bình Định. Trần Quang Long bị đày đi lên nhốt tại Quân Y viện Pleicu. Đây là lần thứ tư Long bị địch bắt. Khi Long lành chân, gia đình lại một lần nữa bỏ tiền “chạy” cho Long ra tù và được đi dạy ở Cần Thơ. Đó mùa đông năm 1966. Có lẽ bọn địch muốn đưa Long vào Cần Thơ để cách ly anh với phong trào tranh đấu của tuổi trẻ Huế, Quy Nhơn.
Nhưng vào Cần Thơ, lập tức Long nối đường dây với “phong trào”. Anh trở thành Chủ tịch Hội sinh viên sáng tác thuộc Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn. Anh tuyển chọn thơ sinh viên “ Tiếng hát những người đi tới” để cổ vũ đấu tranh. Đây là thời kỳ sáng tác của Trần Quang Long nở rộ nhất. Anh viết với nhiều bút hiệu khác nhau như Trần Quang Long, Cao Trần Vũ, Chánh Sử, Thảo Nguyên, Trần Hoàng Phong. Hình như linh cảm thấy thời gian của mình đang ngắn dần phía trước, nên anh muốn trút tâm hồn, trí lực của mình trên từng trang viết. Anh viết ngày viết đêm, trong hơn một năm mà hàng trăm bài thơ ra đời, trong đó có những bài nổi tiếng như “ Thưa Mẹ, Trái tim”, “ Lớn lên không ngừng”,“ Nụ cười chiến thắng”.v.v… Chính hình ảnh “Nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng trước tòa án địch đã trở thành hình tượng nổi tiếng của tuổi trẻ miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, vang vọng cho đến ngày nay. Đó là phát hiện thi ảnh thơ của Trần Quang Long. Nụ cười của một nữ sinh trước họng súng quân thù đã sưởi ấm lòng bao chiến sĩ đang chiến đấu cho độc lập và toàn vẹn của Tổ. Quốc. Có rất nhiều con đường đi vào lịch sử
Như muôn ngàn dòng máu chảy về tim
Rất tự nhiên người con gái đó
Đã đem nụ cười vào lịch sử ngàn năm…
Bài thơ “Nụ cười chiến thắng” dài 60 câu, Trần Quang Long xúc động viết ngay sau khi xem phiên tòa xử chị Võ Thị Thắng, nữ sinh trường Gia Long Sài Gòn, tham gia tự vệ thành, bị bắt trong Tổng tấn công Mậu Thân 1968 , bị bị Tòa án quân sự ngụy quyền xử 20 năm khổ sai !
Trần Quang Long đã mô tả chị Võ Thị Thắng với những nét ký họa rất đẹp : Người nữ sinh Gia Long / Giữa đất Sài Gòn đói nghèo khốn khổ / Giã từ nhà trường, xếp chồng sách vở / Khoác bà ba đen bàn chân nhỏ lên đường . Nhà thơ lấy tên Võ Thị Thắng , ngày sinh của chị 23-9-1945 , ngày Cách mạng Mùa thu với số tuổi 23 tuổi của Nưóc Việt Nam mới , để tạo nên một hình tượng thơ đẹp :
Chị là con người mang tên Chiến Thắng
Đã sinh ra và lớn lên từ mùa thu cách mạng
Hai ba năm rực rỡ chiến công
Đã nở nụ cười tươi như một đóa hồng.
Hình tượng “Nụ cười chiến thắng” trong thơ Trần Quang Long đã trở thành biểu tượng của tuổi trẻ Sài Gòn bất khuất và vang vọng cho đến hôm nay. Nhắc đến “ Nụ cười chiến thắng ”, người Việt Nam không ai không biết đó là nụ cười chị Võ Thị Thắng trước quân thù! Đó là hình ảnh “ Người nữ sinh Gia Long / Người con gái Sài Gòn / Người con gái Việt Nam / Đang hãnh hiện trong nụ cười bất khuất … Các tập thơ “ Vực thẳm và hy vọng”; kịch thơ “ Tiếng gọi Lam Sơn” ba hồi với hơn 1000 câu thơ , rồi tập truyện ngắn “ Bông Cúc vàng” liên tục được Nhà xuất bản Trình Bày ấn hành năm 1967 đã được bạn đọc tuổi trẻ Sài Gòn đón nhận.
Thời kỳ này, Trần Quang Long kết hôn với Tôn Nữ Quỳnh Như, con của Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Đại học Văn khoa Sài Gòn. Quỳnh Như lúc này là sinh viên Đại học Kiến trúc Sài Gòn vừa tham gia phong trào sinh viên, là cơ sở trong đường dây của giáo sư Lê Quang Vịnh. Trần Quang Long dạy học ở Cần Thơ, Quỳnh Như thì ở Sài Gòn .Xa vợ, lá thư nào của Long cũng thấm đẫm yêu thương và trách nhiệm. Giữa những năm 1967, Quỳnh Như có thai. Trần Quang Long mừng lắm, viết thư gửi vợ : “ Anh tưởng tượng – trời ơi- anh tưởng tượng em sẽ đem đến cho cuộc đời hai chúng mình một vì Sao…. Vì Sao sẽ là một Ngọc nho nhỏ, một Long nho nhỏ …” . Viết thư cho vợ , anh dặn nếu sinh con trai thì đặt tên Xuân Thắng, con gái tên Ngọc Chân . Kinh tế gia đình hai vợ chồng kỳ này khá lắm. Quỳnh Như thì con nhà khá giả. Long đi dạy thu nhập mỗi tháng hơn 14.000 đồng !. Vào năm 1967, ở Sài Gòn một gia đình 6 người đi chợ nấu ăn thoải mái, một tháng chỉ hết 3.000 đồng! Dạy mấy tháng Long đã có tiền mua một ngôi nhà ở Thanh Đa để chuẩn bị đưa vợ con đến ở. Đời sống như thế, nhưng Trần Quang Long vẫn không rời bỏ con đường đã chọn của mình : Đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ Quốc !
Mùa Xuân 1968, cuộc tổng tiến công Mậu Thân, Mặt trận Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình miền Nam Việt Nam ra đời. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, bố vợ của Long, là Tổng thư ký. Còn Trần Quang Long là Uỷ viên Mặt trận Liên minh Dân tộc Dân chủ Sài Gòn. Anh xông xáo cùng nhiều bạn bè tổ chức lực lượng đấu tranh. Địch phản công, chúng bắt Quỳnh Như đang mang thai vào tù! Thoát về Cần Thơ, rồi vào chiến khu, Trần Quang Long viết lá thư cuối cùng cho vợ vào ngày 26-2-1968 :” Em Ngọc … Anh ra đi giữa lúc này, giữa lúc em đang sắp tới ngày sinh nở, lại ở trong tù, anh thật chua xót vô cùng… Tình trạng khổ cực của chúng mình là tình trạng chung, nếu đem so sánh với sự hy sinh anh dũng của bao nhiêu người khác, thật chưa đáng vào đâu … Anh tin tưởng “Xuân Thắng”sẽ về một ngày rất gần…”. Ở chiến khu ,anh làm thơ nhớ vợ đang ở tù : Có đêm nào không nhớ / Có ngày nào không thương… / Ngày hai lần cơm hẩm / Chắc em chừ xanh xao… Trần Quang Long làm rất nhiều thơ gửi ra miền Bắc. Năm 1974, Nhà xuất bản Giải phóng mới in tập thơ “Thưa mẹ, trái tim” của anh do bố vợ đề tựa !
Tài năng đang ở độ sung mãn, thì Trần Quang Long hy sinh tại rừng Tây Ninh ngày 11-10-1968 do một trận bom B52 của giặc Mỹ rơi trúng miệng hầm!. Như thế là Trần Quang Long ra đi khi chưa biết vợ mình đã sinh con trai ngay trong tù, đặt tên là Trần Xuân Thắng, đúng như ước vọng của anh. Gia đình phải “chạy” tiền ,mẹ con mới được tha. Quỳnh Như một năm sau mới hay tin chồng hy sinh. Chị đã khóc, đề sau một tập thơ của anh :” Một năm sau em mới biết mình đã mất. Em không hiểu một năm vừa qua em sống bằng nguồn năng lượng nào ?!”.Anh cũng chưa hề biết chị Quỳnh Như ở vậy nuôi con cho đến năm 1978, tức 10 năm sau , chị mất vì bệnh gan . Con trai Trần Xuân Thắng của anh nay đã thành một người đàn ông chững chạc, có vợ và hai con gái , đang ở trong ngôi nhà mà anh đã mua năm xưa ở Sài Gòn…
Trần Quang Long ơi, trong thơ anh viết rất hay về trái tim, buồng tim, trái tim con là thơ, dùng quả tim làm trái phá….Vâng, cuộc sống chính là trái tim biết căm thù, hờn giận,biết yêu thương ,nồng ấm! 27 tuổi đời Trần Quang Long quá ngắn ngủi, nhưng trái tim thơ của anh mãi đập với Đất nước này, với cuộc đời này …
Bình luận mới nhất