Đăng bởi: Ngô Minh | 01.08.2012

Chuyện PHÙNG QUÁN (10)



CỎ HOA PHÙNG QUÁN

Phùng Quán trọn cuộc đời là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết. Những tác phẩm thơ, văn xuôi của anh bây giờ đọc lại vẫn hừng hực lửa chiến đấu. Có lẽ vì thế mà anh rất ít thời giờ để làm thơ thưởng hoa vịnh nguyệt . Tôi đọc trong số hàng trăm bài thơ anh để lại, chỉ đếm được có hơn chục bài viết về hoa lá, cây , cỏ , quả , như các bài “ cây vạn niên thanh” , “cây xương rồng”,” cây dứa” , “hoa sen” ,” Cây mận ở Vĩnh Linh”,”Cây cỏ rười”, ” hoa cứt lợn”v.v. Phùng Quán ngắm hoa lá cỏ cây theo cách riêng của mình. Anh không ca ngợi vẻ đẹp , màu sắc, hương thơm quyến rũ của cỏ hoa như trước một giai nhân đơn thuần, mà chủ yếu là anh phát hiện và xưng tụng sự hữu ích , sự hi sinh, lòng nghĩa khí lớn lao của cây cỏ. Với anh , nhiều loại cây lá có phẩm chất của một chiến sĩ ! Bởi vậy , nhà thơ coi những cây vạn niên thanh, cây xương rồng , cây dứa..là những bậc thầy của mình về bản lĩnh sống , nên phải xưng bằng “Anh”, bằng “ Người” – “Cả một đời tôi chỉ khiếp phục anh”, bởi vì :
Anh uống độc khí trời
Anh xơi độc nước lã
Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh
Vẫn tặng cho đời chất thơ của sắc lá!”
( Cây Vạn niên thanh)
hay :” Xương rồng ơi xương rồng ! / Anh có thật xương rồng?/ Hay xương người nghĩa khí / Ngã xuống rồi hóa thân ?..”( Cây xương rồng) ; “ Dứa ơi ! / Người hãy dạy tôi / Cách chắt lọc từ khô cằn sỏi đá / Chất mật mát lành dịu nắng lửa trăm cơn” ( Cây dứa ) ; Cây cọ mọc trên đồi , trổ lá cho người lợp nhà, “ che cho mình dăm tàu lá nhỏ / Che cho đời nghìn tán lá xanh..” ( Cây Cọ) …Phùng Quán tìm thấy trong cây cỏ hoa lá bao điều tâm đắc , ước nguyện của mình về thơ .Cái chất thơ trong cỏ hoa ấy là chất Phùng Quán , anh bộ đội Cụ Hồ luôn luôn xung trận.

Gây ấn tượng nhất đối với tôi là câu chuyện về bài thơ “Trường ca cây cà “ . Sinh thời mỗi lần “vi hành” vào Huế, Phùng Quán thường tá túc tại nhà tôi, nhà Hòang Phủ Ngọc Tường ở Bến Ngự hoặc nhà thầy giáo Lê Gia Ninh ở gần Cống Lương Y, bên Thành Nội. Mỗi sáng, anh dậy sớm, xỏ chân vào đôi dép dày cộp , nặng như cùm tự , mặc chiếc áo chàm cũ , đeo chiếc bị cói và dắt chiếc xe trâu lêu nghêu ra đường, bắt đầu một ngày đi đọc thơ “phục vụ nhân dân” như anh thường nói. Đến tận khuya anh mới ngất ngưỡng về . Lần ấy, cả một tuần liền anh không về ngủ . Thì ra anh vào Đà Nẵng, Quảng Nam đọc thơ tít mù từ phố xuống huyện, xã . Đúng ngày Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên ( cũ) lần thứ ba năm 1988, anh xuất hiện ở Huế, nét mặt rạng rỡ , khệ nệ bưng một chồng báo “Quảng Nam-Đà Nẵng cuối tuần” có in bài thơ “Trường ca cây cà” ngồi trước cửa hội trường , ký tặng văn nghệ sĩ Huế đi đại hội. Tặng ai anh cũng ghi một đoạn thơ mà sau này anh lấy làm đề từ cho bài thơ Trường ca Cây cà :
Ba mươi năm trước
Tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ
Tôi lại hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang
Chính cây cà quê mùa lao lực
Đã dạy tôi dũng khí bền gan
(Thơ Phùng Quán , NXB Văn học,2003, tr, 182)
Đó là mùa đông năm 1988, lần đầu tiên sau 30 năm anh lại được báo in bài thơ tâm huyết . Anh lấy nhuận bút bằng mấy trăm tờ báo để tặng! Gặp lại tôi anh cao hứng đọc :” Chính cây cà quê mùa lao lực / Đã dạy anh dũng khí bền gan”. Đúng như thơ anh từng viết :” Có những phút ngã lòng / Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy !”.

Tôi mừng cho anh và đọc đến thuộc “Trường ca cây cà”. Bài thơ gọi là trường ca có tới 6 chương, nhưng chỉ 56 câu thơ. Có chương chỉ có 2 câu, 5 câu .Cách cấu trúc trường ca như thế chỉ có Phùng Quán . Bài thơ súc tích, chặt chẽ với những ý tưởng lớn và rất cảm động. Cây cà Việt Nam
lao lực màu quê …
Mặc cho sâu róm đầy cành
Rễ còn bám đất
Còn khôn nguôi tím nguôi xanh,
…Bạc tóc trồng cà
Tôi mới hiểu ra
vì sao Gióng
Trước khi lên ngựa sắt
Vung roi trừ giặc
Chỉ ăn cơm cà..
Người Nghệ “ Muối một vại cà / Ăn một năm / Sử kháng chiến ngàn trang / Người nghệ ưa vắn tắt : / – Đánh Pháp hết chín vại cà / Đánh Mỹ hết hai chục vại..”. Bài thơ cuốn hút bởi hình tượng sinh động và hàm chứa , đầy sức thuyết phục về sức mạnh Việt Nam, lại dân dã dễ đọc , dễ hiểu , dễ nhớ !

Người Huế ai cũng thích thưởng ngoạn hoa sen, mua hoa sen về thờ hoặc cắm trên bàn. Nhưng ngắm sen như Phùng Quán thì chỉ một ! Anh đọc và phát hiện ra trong câu ca dao “Trong đầm gì đẹp bằng sen / Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng / Nhị vàng bông trắng lá xanh / Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” một sự vô lý , khó hiểu và khó chịu. Anh cho rằng câu ca dao trên không phải do nhân dân làm ra mà do một số bọn phản trắc,..” vốn con cái của giai cấp cùng khổ / Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son / Nghĩ đến mẹ chúng xấu hổ…” nên chúng cho rằng, chúng gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ! Đúng là khẩu khí và trực cảm Phùng Quán

Phùng Quán nhiều đêm kể cho tôi nghe rằng anh đã từng sống một mình trong cái lán lợp lá mía ở Trại tăng gia bên bờ con suối có tên là Linh Nham, vùng núi Thái Nguyên suốt ba năm ròng .Chị Hương Quân họa sĩ ở Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc kể , dạo đó chị cùng anh Quán cùng làm chung những tập truyện tranh. Anh Quán viết lời văn, chị vẽ tranh. Thế là hai người yêu nhau tha thiết. Chồng chị phát hiện ra mối quan hệ này, “làm” rất dữ ( sau đó hai vợ chồng ly dị). Lúc đó cơ quan Bộ Văn hóa cũng đang cần một người đi tăng gia “kế hoạch ba” . Thế là anh Quán xung phong đi. Đi để thoát khỏi sự gần gũi hàng ngày của hai người . Suối Linh Nham mùa mưa lũ, không ai dám vượt qua , nên anh như Robinson Crusoe trên hoang đảo . Quanh lán mọc đầy cỏ dại và cây trinh nữ . Bàn ghế là rễ cây khô ghép lại . Giường nằm là cây cổ thụ bị bão xô gật gốc lũ cuốn về , anh lấy rìu vạt bằng phía trên, rồi đục lõm xuống như cái áo quan. Anh sống với một con chó, một con heo, một bầy gà. Người với vật cùng ăn sắn, bắp, rau lang, ốc suối và cá tôm tự đánh bắt lấy . Anh đã tự đào một cái huyệt ngay trước mặt lán, dài hai mét, rộng một mét , sâu mét rưỡi , để phòng khi kiệt sức, bên mình không có ai ! Một lần anh mắc phải chứng dị ứng lở loét toàn thân, tưởng không sống nổi. May mắn được một vị sư nữ già chùa Tăng Cấu gần đó cứu khởi bệnh nhờ mấy nắm lá tên là lá khổ sâm mọc trên đồi. Ơn cây, ơn người cứu mạng, sau đó anh làm bài thơ “ Lá khổ sâm”. Bài thơ buồn đau như một vết cắt . Phải trải nghiệm và yêu cuộc đời lắm mới viết được những câu thơ da diết cõi lòng :
Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm
Tự mình cất lấy ly rượu sống
Ôi rượu khổ sâm đắng lắm
Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian ../
Bạn hữu thân thiết ơi !
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng…

Cỏ cây hoa lá trong thơ Phùng Quán là những biểu tượng của cuộc sống tâm trạng, tâm linh anh muốn gửi đến và chia sẻ với độc giả của mình .

Ngay cả trong tình yêu, Phùng Quán cũng có cách thể hiện thơ khác người đời. Sinh nhật người yêu không phải năm bông hồng, mà anh tặng quả bí xanh ! Bài thơ “ Quả bí xanh” là một bài thơ tình với nhiều sự tích thú vị . Năm 1984, sau ba mươi năm anh lại được vào Huế quê nội. Anh mồ côi cha từ năm lên hai . Lớn lên năm tuổi đã giúp mẹ chăn trâu , cắt cỏ ở làng Thủy Thanh Thượng . Suốt ngày người đen nhẻm và nồng mùi bùn đất. 14 tuổi anh trốn mẹ đi theo Vệ Quốc Đoàn đánh Pháp . Cho nên anh nhớ và yêu quê hương tha thiết . Những ngày đầu vô Huế ấy, anh bị “ tiếng sét tình yêu” của một thiếu phụ Huế đài các và từng trải hớp hồn . Nàng thì áo dài tím thướt tha. Còn anh thì áo chàm sờn , dép cao su, bị cói như một nông dân miền ngược ! Biết thế nhưng anh vẫn luôn ghé thăm nàng như một niềm si mê đơn độc. Ngày sinh nhật nàng, anh rủ tôi đạp xe xuống Thủy Dương quê anh , thỉnh từ vườn nhà ông chú ruột một trái bí to, da căng mọng màu ngọc bích . Rồi anh cặm cụi đề thơ lên da bí . Xong chúng tôi lấy bao tải, quần áo cũ bọc trái bí cẩn thận, xong anh ôm bí ngồi xích lô lên Huế . Trưa hôm ấy , hàng trăm người ngạc nhiên trước món quà tặng quá bất ngờ của thi sĩ Phùng Quán : Đó là một quả bí xanh lớn có bài thơ đề trên da bí mà anh gọi là khối thiên thần màu ngọc bích ! Anh nâng tặng vật nặng trĩu trên tay, nói trong tiếng thở gấp :”- Tặng vật tôi mang từ quê nội tặng sinh nhật em đây !”. Nàng thơ bước vội sau tấm màn gió, cầm ra chiếc gối còn dính vài sợi tóc của nàng để làm gối cho anh đặt “trái bí thơ”
Trên da bí
Màu men ngọc lý
Tôi tạc câu thơ
Buồn như lửa
Hỏa táng trái tim…
Quà sinh nhật tặng người tình như thế tôi thưa thấy bao giờ. Nó vừa ngộ nghĩnh, xa xót, vừa bản chất như chính sự hồn nhiên chứa chan của cuộc sống !

Cho đến những ngày bị bệnh nặng sắp từ giã cõi đời, viết thư cho bè bạn anh vẫn kể chuyện về cây cỏ :” Nếu chết, anh sẽ hóa thành một cây cỏ dại, cùng cỏ cây xanh tốt đất này.” .Anh bảo , đời anh từ nhỏ cho đến khi đã thành nhà văn rồi vẫn chỉ là ngọn cỏ . Bao đêm viết “văn chui” , rồi vén cỏ ra bờ Hồ Tây ngồi câu trộm cá để nuôi con, để sống qua những ngày gian khó. Bao đêm lót lá rừng mơ giấc mơ chiến sĩ. Cỏ hoa trong thơ Phùng Quán không phải là thứ trang sức , mà là biểu tượng của phẩm giá mọc lên từ niềm tâm tưởng một đời người…

( Báo Văn Nghệ số 48, 1/12/2001)


Trả lời

  1. […] PHÙNG QUÁN (9)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (10)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (11)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (12)   –  […]

  2. […] PHÙNG QUÁN (9)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (10)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (11)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (12)   –  […]

  3. […] TBT TẠP CHÍ LANGBIAN (Nguyễn Trọng Tạo). – Chuyện PHÙNG QUÁN (9)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (10)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (11)   –   Chuyện PHÙNG QUÁN (12)   –  […]


Bình luận về bài viết này

Chuyên mục