Đăng bởi: Ngô Minh | 29.05.2015

BÓN MƯƠI NĂM THƠ HẢI NGOẠI (3)( PHẦN 2 và hết chương3)

Nhà văn Nguyễn Đức Tùng

BÓN MƯƠI NĂM THƠ HẢI NGOẠI (3)( PHẦN 2 và hết chương3)

Nhà văn  NGUYỄN ĐỨC TÙNG

Chương 3 ( tiếp và hết

Hay Trần Nhuận Minh, hoán đổi vị trí chủ thể và chọn cách nói thế sự:

Hai em trai chết trận

Chiến tranh ở hai đầu

Ảnh thờ mờ sương khói

Vẫn không nhìn mặt nhau

Trong dư luận xã hội, bao giờ cũng có một sự miễn cưỡng khi đề cập đến các hậu quả của chiến tranh. Tâm lý do dự này vẫn khởi động bộ máy vận hành của nó chống lại quá trình phân tích và lý giải. Khi một nhà văn đi xuyên qua được các biên giới và mô tả đối phương như những con người, các nhân vật bằng xương bằng thịt, thì tác phẩm của họ đạt được tầm kích lớn hơn. Nguyễn Bắc Sơn, lính miền Nam, sau năm 1975 gặp bố là đại tá quân đội nhân dân, đã than phiền.
Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông càng làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu

Tôi ước mơ cõi đời tốt đẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy.

Vì văn chương không phải là một quá trình luân lý.

Các lý thuyết vật lý hiện đại quan niệm rằng vũ trụ, trong đó có nhân loại, được cấu thành bởi các rung động như kiểu các sợi dây đàn vĩ cầm rung lên. Khi khả năng ấy bị giảm thiểu, trong tình trạng chiến tranh hoặc thù địch, con người mất thăng bằng, trở nên rối loạn. Khi chúng ta không thấy người khác là những con người, mà nhìn thấy họ như là những vật thể đại diện cho thế lực đen tối, chúng ta dễ dàng tuân lệnh, hoặc tự cho phép mình quyền, dẫm đạp lên như gỗ đá. Khi khả năng rung động trước người khác, giao hòa với người khác được phát triển, cá nhân sống trong sự hòa hợp với sinh thái. Ngược lại, sự chia cắt từng mảnh (fragmentation) và thiếu trách nhiệm cá nhân là bầu khí quyển tinh thần của chiến tranh.

Trong thơ trữ tình, cái riêng tư vẫn có tính chính trị. Khái niệm ấy càng đúng đối với thơ về chiến tranh, một khi tác giả có một độ lùi thích hợp cho các biểu hiện cá nhân thay thế tình cảm sử thi. Đỗ Quyên:

Ta trong chiều hôm những tin hồng

Ranh giới không phân biệt

Chữ, bút có thể đứng ngồi vô lối

Tranh trên trần nhà

Gương phủ lối đi

Bạn khỏi băn khoăn về cây viết của mình

chỉ quen hát quốc ca

Khỏi băn khoăn về một người em không quên mình từng đau đớn

xà tới cười với những song sắt lằn gân

Khỏi hỏi về một sắc dân bao giờ thay giống

về tuyệt vọng-niềm tin và những cặp chữ cuối bài

Bạn có thể bỏ màu trắng đi chơi

những chuyến tốc hành xuyên giấy mực

Lòng kính trọng sự thật và quyền tự do biểu đạt là căn bản đầu tiên của hóa giải hận thù dân tộc. Làm thơ về chiến tranh là trò chuyện về những mất mát, về những bất công lịch sử và với người đã chết. Những người nghe bạn có thể không thể trả lời, không ai biết chắc bạn nói đúng hay không về một sự kiện, sự thắng bại của một trận đánh, mức độ tổn thương, bạn chỉ có thể tự biết lấy mình. Vì vậy bạn có nhiều tự do, và một nhà thơ càng có nhiều tự do càng có trách nhiệm và phải sống với nhiều khó khăn để tìm kiếm thứ tiếng nói vừa phản ảnh sự thật trong quá khứ vừa hướng về sự hóa giải hận thù trong tương lai. Tất cả những nước xảy ra nội chiến đều phải trải qua một quá trình tương tự lâu dài. Quá trình ấy ở Việt Nam chậm chạp, thậm chí chưa chưa hề đạt được tiến bộ nào, vì bản chất của cuộc chiến tranh không phải chỉ là nội chiến mà còn là chiến tranh ý thức hệ.

Tôi là con cá sinh ra trong dòng sông Bến Hải

Buổi sáng bơi qua bờ bắc tìm ăn tránh bộ đội lưỡi câu

Buổi chiều về ngủ bờ nam trốn lính rình giăng lưới

Ngày ngày lính bờ bắc đói khổ chán chường chửi lính bờ nam

Lính bờ nam mệt mỏi nản lòng chửi lính bờ bắc

Nhiều đêm nhìn sao trời thao thức

Tôi tự hỏi lòng họ làm người có vui sướng hay không?

(Ngu Yên)

Bất kỳ một thành tựu thơ ca nào, không dựa trên những tiền đề tương thích của dân tộc, mà chỉ dựa trên các quan điểm chủ quan sai lầm về chiến tranh, dù có thể có giá trị thẩm mỹ nhất định, được nhắc đến một thời, sẽ không tồn tại lâu dài. Nếu dòng thơ hoài niệm trong bốn mươi năm qua đạt được nhiều thành tựu, thì thơ hải ngoại viết về chiến tranh còn chưa nhiều, ít có bài thơ hay. Thế hệ tiếp nối không có nhiều kinh nghiệm và sự tiếp xúc của họ đối với lịch sử gần như không có. Đó là một vài lý do làm cho dòng thơ về chiến tranh tuy chưa bao giờ ngừng tìm kiếm những cách tân, vẫn để lại nhiều vết trắng.

Người đọc thơ không chủ ý đi tìm các sự thật như mục đích chính yếu của việc đọc và không nên có ảo tưởng rằng các đoạn trích dẫn thơ hay văn trên đây là ảnh chụp chân dung không bao giờ thay đổi về những chuyện thực sự xảy ra. Người đọc thơ tìm kiếm giữa các chữ, đằng sau các chữ, một dòng sóng sôi động mà người viết trực tiếp tham dự hoặc chia sẻ gánh nặng. Đó là sự thật của hận thù và thấu hiểu, của hèn mọn và cao cả, của tội ác chiến tranh và lòng khoan dung dân tộc. (7)

Đối với nhiều nhà thơ, ý thức dân tộc chỉ có thể là ý thức của thơ ca, của ngôn ngữ, bởi vì đó là góc nhìn duy nhất, là đường lối duy nhất để họ đi từ hiện tại đến quá khứ và ngược lại, để họ vượt qua những khuất lấp, kể lại sự thật với người đọc không phải chỉ bằng sự chứng kiến có tính cách lịch sử mà bằng cả tâm hồn và thể xác, đôi khi chính sinh mệnh của mình.

Về dòng văn học chính thống trong nước, số lượng xuất bản của thơ về chiến tranh là áp đảo so với các dòng khác và có xu hướng tiếp tục như thế vì hai lý do. Sự hỗ trợ của các thiết chế nhà nước, báo chí, tài chánh và tinh thần, những khuyến khích như các giải thưởng và sự nổi tiếng. Nhưng lý do quan trọng hơn, những thế hệ tương lai viết về chiến tranh được nuôi dưỡng kỹ trong một bầu không khí thuận lợi cho lối cảm xúc và suy nghĩ của người thắng trận. Ngược lại, những nhà thơ hải ngoại, với những quá khứ khác, những đau khổ khác, và tất nhiên niềm tin khác, gặp khó khăn hơn nhiều khi viết về đề tài này. Như trong thơ Cao Đông Khánh:

Thời tiết chật hơn chiều sâu trí nhớ
vượt ngục vượt biên vượt biển xuyên bang
khuya hôm đó có người bị xử tử
để cho người sống sót, chết không yên

Chữ nghĩa là ánh sáng của mặt trăng ngoại quốc
nàng trắng như giá băng, nàng ấm như trái chín cây
con ngựa của thế kỷ trước chở tình vào lịch sử
chở công nương đi dạ vũ trá hình

Áp lực cộng đồng, mặt khác, là có thật đối với các nhà thơ hải ngoại lớp trẻ hơn viết về nội chiến hai mươi năm, mặc dù tất nhiên không thể nào sánh được với tình trạng lo âu mà đồng nghiệp của họ có thể phải chịu đựng trong nước. Tình yêu nước đã từng xô đẩy người Việt bắn giết nhau thì chính nó có thể hóa giải hận thù do nội chiến gây ra. Một bài thơ được cho là vô danh, viết ở miền Bắc trước đây nhân việc mất Hoàng Sa năm 1974, nói lên niềm tin: dân tộc Việt Nam là một.

Em ơi, trên từng trang sử nhỏ

Xin kể thêm tôi, thành 19 triệu một người

Thành viên gạch hồng tươi

Làm bức tường thành, ngăn triền sóng dữ

Giữ không cho rơi một giọt mật nào

Mỗi giọt ra đi chính mỗi giọt máu đào, bao đời cha ông nhỏ xuống

Người bạn hải quân miền Nam ơi

Trên đảo mù sương hôm đó có tay anh cầm súng

Từ những hạm tàu rẽ sóng đại dương

Nhờ những điều kiện đặc biệt của mình, thơ hải ngoại có khả năng ghi lại và lưu giữ ký ức của đất nước, một giai đoạn đau thương của dân tộc. Đó là người thư ký với nhiều công lao và nhiều khiếm khuyết. Mối quan hệ giữa hoài niệm và suy tưởng chiến tranh, giữa quê hương cũ và xứ sở mới, giữa xã hội bên ngoài và đời sống bên trong, là mối quan hệ biến động, tương tác, thay đổi mỗi ngày. Trong ý nghĩa ấy, thơ về chiến tranh không phải chỉ là thơ về nỗi mất mát mà còn về sự tìm kiếm, khôi phục. Đôi khi chính người ra đi đã giữ lại cái tan vỡ, chính người thua cuộc mang trong hành trang của họ những gìn vàng giữ ngọc quê hương, cái chết bị xem là vô nghĩa của người lính vô danh, tức là vô danh đến hai lần, những huyền thoại bị xóa sạch ở nơi khác. Truyền thống thơ trữ tình về chiến tranh tích hợp vào nó yếu tố tự sự. Xuất phát từ một nền văn học non trẻ, chết ngay trong lúc trưởng thành, dưới hoàn cảnh lưu vong ngặt nghèo, thơ vẫn tiếp tục đi con đường riêng của nó, và bảo vệ được tính chất đặc thù của miền Nam và của hải ngoại trong việc nhận thức chiến tranh, tìm kiếm, đánh giá lại, nghi ngờ, tháo gỡ, giải thích, xác định, tra vấn. Sự tìm kiếm tiếp tục về một cuộc chiến tranh đã mất tạo nên chính năng lượng của thơ.

Rất mới:

bệnh chiến tranh dày vò sâu xương tủy
nắng thời bình không xuyên nổi nắp hầm

kinh nghiệm giết nhau có đéo gì là dinh hạnh
mà lải nhải quààài thời năm mươi sáu mươi sáu mươi bẩy mươi

tôi quạt con đạm tiên một tràng ak nát mặt
những đời sau không cần biết tới mày

(8)

Bài thơ của Nguyễn Hoàng Nam, với trích đoạn trên đây, đòi hỏi sự giao tiếp trực tiếp giữa tác giả và người đọc. Đúng là thơ ca không thể thay đổi được lịch sử nhưng có thể làm cho một người hiểu biết hơn, thận trọng hơn, tinh tế hơn, và do đó tiến gần hơn đến sự giao hòa với thiên nhiên và người khác, có thể cư trú lâu dài trong trạng thái cân bằng giữa quá khứ và hiện tại, giữa hiện tại và tương lai, bước tới cánh cửa của sự tha thứ và bao dung. Bốn mươi năm sau, nhà thơ Uyên Nguyên thăm lại một trong những địa danh nổi tiếng khi cuộc chiến sắp tàn. Bút pháp mới, thao thức.

Chiều qua cầu Cỏ may
chân giẵm tà dương xa lỡ
mấy độ đường nhàu đỏ gót ngày
lửa mắt khát quê nhà rơi tuột từng tờ lịch máu
tháng tư
nhớ khúc sông Mường
cồn cỏ sau lưng con trăng cốc vũ không bờ trôi giạt

một lần qua chiều đứng lại
khói quấn tiếng kêu
cuống cổ đặc cảm giác không nơi chốn
khoảng lạ dòng Cỏ May kinh động màu nước
bức xám vẽ trôi trời mây
loang/ vết cắt gió loạn phơi xác
những con lộ cháy
đen /thịt người /nắng/ khét

đêm nằm trên khoang cá nhìn trăng 16

(26/04/15) (10)

Khi con người, mặc dù có thể đầy đủ tiện nghi, chỉ quan tâm đến mình, không có khả năng cảm nhận tinh tế về người khác, họ sẽ sống trong lo âu và sợ hãi. Ngôi thứ nhất, cái tôi, là nhân vật trung tâm của thơ, nhất là thơ trữ tình, dĩ nhiên không đồng nhất với nhà thơ và cuộc đời riêng của nhà thơ ấy, nhưng chúng cũng không hoàn toàn tách rời biệt lập. Tuy nhiên trong thơ chiến tranh, cái tôi chủ thể thường khi cũng chính là người lính. Đó là điểm mạnh mà cũng là điểm yếu ở cả hai miền Nam Bắc trước đây. Khuynh hướng tự sự trong thơ đương đại, với giọng điệu ngày một văn xuôi hóa, trong chừng mực mà người đọc thơ Việt, vốn bảo thủ, chấp nhận được, mở ra khả năng tồn tại nhiều điểm nhìn, nhiều giọng nói trong thơ, phá vỡ tính giới hạn của chủ thể thơ trữ tình, ý thức giới hạn của nhân vật.

Chàng đứng giữa nhà giới thiệu cùng em

Những ai xưa đã có lúc sum vầy

(Tô Thùy Yên, 1997)

Khoảng cách hiện nay giữa các chiến tuyến vẫn là số đo bất tận. Văn học không thể rút ngắn khoảng cách ấy. Nó chỉ có thể chiếu ánh sáng vào chân của người đi tìm đường cho những cơ hội hóa giải hận thù. Thơ ngày nay cần phải thay đổi, vì chỉ có đi con đường riêng, mới mong tìm ra được dấu tích của kẻ đã đi mất, mang theo hắn những câu chuyện bí mật, không phải phần kết thúc đầy kịch tính của chúng, mà phần mở đầu, chương Một, phần giới thiệu nhân vật và căn nhà của họ, cha mẹ, tuổi thơ của họ, những kẻ về sau có thể lớn lên thành kẻ giết người.

Tôi đã từng có dịp nhìn thấy một người phụ nữ từ Hà Nội lang thang đi tìm dấu tích của chồng chết ở mặt trận thành cổ Quảng Trị, và đã từng có dịp nhìn thấy một người đàn bà khác lặng lẽ đến bên cầu Tràng Tiền thắp hương cho đứa con trai mất tích trong tết Mậu Thân. Thơ có thể làm được gì cho họ? Thơ có thể bắt thời gian dừng lại, khắc sâu một ngày vào trăm năm, đóng đinh một tờ lịch mỏng vào bức tường ký ức trắng xóa, một tình yêu tan vỡ vào một câu thơ ngắn. Tại sao thơ ca có thể làm được điều ấy, quyền năng của nó là ở đâu?

Ở nhu cầu muốn được lắng nghe của con người. Mỗi cá nhân không thể chống được thời gian, chống lại cái chết, nhưng dân tộc và nhân loại, như một tập thể, có khả năng làm được điều ấy hay mơ ước làm được điều ấy.

Trước mỗi ngọn nến hồng
Sau ngày thua trận
Im lặng sâu hơn
Vì chờ tiếng nói
Mưa rả rích ngoài trời
Vẫn không một lời
Giã từ nhau lặng lẽ.

Chiếc cầu sắt đen
Những thanh tà vẹt rỉ
Tàu qua mỗi buổi chiều

(Lữ Quỳnh, bài Người lính buồn, 2011) (10)

Có những nơi chốn sâu hơn ngôn ngữ. Nơi bạn rơi vào cõi đen tối. Khi ấy, bạn không cần đến ngôn ngữ và thơ ca. Nhưng cũng có những lúc khác, ngôn ngữ giúp bạn thu xếp lại đời mình, giữa những bộn bề của lịch sử mà bạn bước qua, ngọn nến chiếu trên tay, tỉnh thức. Chiến tranh bao giờ cũng là một tai họa, nhưng cuộc chiến tranh của người Việt chúng ta là một bi kịch. Bi kịch được hiểu là tai họa, mất mát, đau đớn sinh ra từ tương tác lịch sử, những xung đột khách quan, không hóa giải được. Bi kịch là một tai họa tuy do con người gây ra nhưng con người không cưỡng lại được, một tình huống không thể vượt thoát.

Thơ viết về chiến tranh đã qua thời kỳ nhìn từ góc độ của người tham dự trực tiếp, chiến tuyến này hay chiến tuyến khác, dù nhà thơ ấy đã thực sự cầm súng, đã qua thời kỳ kêu gọi lên đường chiến đấu hay kêu gọi chống chiến tranh, đã qua thời kỳ thương cảm và bi lụy. Nhà thơ viết về chiến tranh hôm nay cần rời bỏ chiếc ghế trên đó anh ta đã ngồi quá lâu, dù đó chỉ là chiếc ghế xếp bên vỉa hè, bước về phía bên kia đường, len lỏi qua dòng xe cộ, về phía nhân dân, nạn nhân, hay ngay cả đối phương nếu đó là phía có thể nhìn thấy sự thật, vượt qua xúc cảm, bước tới nhận thức và mô tả khách quan. Nhà thơ sẽ giúp người đọc và các thế hệ mai sau nhìn được khía cạnh hào hùng và bi thảm của một dân tộc bị xua vào tai ương, bị dẫn dụ, bóc tách những vỉa đá thời gian, những lớp bụi của lừa dối và tự lừa dối, làm hiển lộ khuôn mặt kẻ bị gõ cửa trong đêm, dẫn đi giữa tiếng khóc gào, mất tích trong bóng tối hay bị dẫm nát.

Khi khuôn mặt ấy hiện ra dưới ngón tay đào bới của thơ ca, giữa đất đá bụi bặm, người đọc nhận ra nó quá quen thuộc.

Vì đó là khuôn mặt của anh ta.

N.Đ.T.

Chú thích chương 3:

(*) Mc Carthy, Cormac, The Road, Vintage International, 2006, p.284.

Do you have any kids?

We do.

Do you have a little boy?

We have a little boy and we have a little girl.

How old is he?

He’s about your age. Maybe a little older.

And you dind’t eat them.

No.

You don’t eat people.

No, we don’t eat people.

And I can go with you?

Yes. You can.

(1) Carolyn Forché, Against Forgetting, NXB Norton, 1993, p. 705

(2) Conscientious objector: những người từ chối nhập ngũ vì lý do niềm tin, đạo đức, tôn giáo. Một khái niệm thường dùng ở Hoa Kỳ.

(3) Cho đến khi họ gặp phải sự thật sau đây.

Mưa đã tẩy hết dấu vết. Hoàn toàn do tình cờ mà bọn anh đã chạm trán với chúng ở dưới chân quả đồi độc lập. Bảy tên lính viễn thám. Ba tên bị hạ khi đọ súng. Bốn tên bị bắt sống. Thịnh “con” hy sinh trong trận chiến, đạn trúng tim, không kịp một tiếng kêu, ngã sấp.
– Đâu rồi? Họ đâu, ba cô gái ấy? – Kiên hỏi, giọng cực kỳ ôn tồn. Bốn tên tù binh không phải trói, bị đánh nhừ tử, áo quần rách bươm, be bét bùn và máu, đứng lặng, làm thinh. Chúng uể oải đổi chân.
– Nào, họ đâu rồi? Họ còn thì chúng mày còn. Tên nom to con nhất bọn, mắt trái bị báng súng dộng lò
i ra, máu hòa nước mưa nhuộm đỏ nửa mặt, đưa con mắt nhìn Kiên, cười khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ớn.
– Ba nhỏ đó trình quí anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi
, mấy nhỏ la khóc quá trời.
Cả tốp trinh sát soạt soạt rút dao găm. Kiên vội ngăn:
– Đừng! ấy chớ
. Bọn này chắc cũng muốn được la khóc đã rồi mới chết. Chết ngay thì chúng không thích đâu.

(Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh) (http://kenhsinhvien.net/topic/dang-doc-noi-buon-chien-tranh-bao-ninh-than-phan-cua-tinh-yeu.21953/)

Tiếng chửi mắng chen lẫn tiếng nổ khô và gọn. Chúng chửi mắng hoặc bắn chết thương binh. Chưa bao giờ tôi căm thù và ghê tởm bọn chúng đến ngần này. Chiến tranh là luật của sống chết, nhưng khi người đối địch với mình ngã xuống thì ai nỡ lòng nào để hành hạ và giết chết. Lũ chúng nó, loài không có linh hồn. Đã bao lần chúng tôi bắt được tù binh, kẻ cho thuốc lá, người cho cơm ăn, những người lính Nhảy dù xưa nay vẫn có tiếng là cứng rắn nhưng chưa một lần nào chúng tôi hành hạ tù binh, huống gì tù bị thương. Nhưng ở đây, bọn Việt cộng như một kẻ vô linh hồn, chúng quên mất tình người. Người nằm đấy, những người Việt Nam chung với chúng một dòng máu, chiến tranh đã biến đổi họ thành thù địch trong trận đánh, nhưng bây giờ còn gì để tạo nên thù hận! Nhưng rõ ràng tôi nghe trong bóng đêm những tiếng chửi mắng tục tĩu, và những tiếng nấc cuối cùng của người chết khi nhận những lát dao tàn bạo hoặc những viên đạn cuối cùng thật chính xác nổ vào đầu… Tôi bò nhanh về phía tay phải theo triền dốc, đâu đâu cũng có người chết, có xác đã lạnh cóng, có xác còn nóng của những kẻ vừa chết. Tôi đụng vào một người.

– Ai đó? Tôi, Cấm đây, cứu dùm tôi với…

Có tiếng chân người chạy đến, một tên Việt cộng…

– Mẹ mày, để tao cứu cho.

Nó cười hềnh hệch man dã, một viên đạn nổ chát chúa, nó bắn vào đầu anh Cấm… Tôi nằm im không nhúc nhích, mặt úp xuống lá cao su.

(Phan Nhật Nam, Dấu binh lửa) ( http://buonvuidoilinh.wordpress.com/2013/06/06/phan-nhat-nam-hoi-ky-dau-binh-lua-2/)

Khả năng phản ảnh sự thật của văn học mở rộng đến đâu? Người đọc bình dân thưởng thức văn học bằng nội dung, người đọc chuyên nghiệp chú ý đến hình thức nghệ thuật, nhưng cả hai, dưới tác động thẩm mỹ, thường hình dung văn học là sự thật, trong khi thật ra, ngay ở thành tựu cao nhất, nó chỉ là tấm gương phản chiếu sự thật. Vậy thì, có bao nhiêu sự thật trong hai đoạn văn trên, một của Bảo Ninh có thể xem là tiểu thuyết có tính tự truyện, một của Phan Nhật Nam có thể xem là tiểu thuyết có tính bút ký, hoặc ngược lại?

(4) Du Tử Lê, Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, NXB Văn học nhân chứng, 1989, p181.

(5) Phan Bá Thụy Dương, Talawas. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3708&rb=0101

(6) Adam Kirsch, the modern Element, Norton, 2008, p. 25

(7) Tôi ít thấy nhà thơ thế giới nào viết giản dị và thuyết phục như nhà thơ Ba Lan Wislawa Szymborska trong bài thơ nhan đề “Việt Nam”:

“Chị ơi, tên chị là gì?” “Tôi không biết.”

“Chị bao nhiêu tuổi? Quê quán nơi đâu?” “Tôi không biết.”

“Tại sao chị đào cái hang này?” “Tôi không biết.”

“Chị trốn ở đây bao lâu rồi?” “Tôi không biết.”

“Tại sao chị cắn tay của tôi?” “Tôi không biết.”

“Chị có biết chúng tôi không làm hại chị không?” “Tôi không biết.”

“Chị đứng về phe nào ?” “Tôi không biết.”

“Đây là chiến tranh, chị phải chọn một phe chứ.” “Tôi không biết.”

“Làng cũ của chị còn không?” “Tôi không biết.”

“Những đứa trẻ này có phải con chị không?” “Dạ phải.”

Vietnam

“Woman, what’s your name?” “I don’t know.”
“How old are you? Where are you from?” “I don’t know.”
“Why did you dig that burrow?” “I don’t know.”
“How long have you been hiding?” “I don’t know.”
“Why did you bite my finger?” “I don’t know.”
“Don’t you know that we won’t hurt you?” “I don’t know.”
“Whose side are you on?” “I don’t know.”
“This is war, you’ve got to choose.” “I don’t know.”
“Does your village still exist?” “I don’t know.”
“Are those your children?” “Yes.”

(Wislawa Szymsborska, Poems new and selected, translated by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh, Hartcourt Inc, 1998, p.90.)

(8) Inra Sara, “Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại”.

http://inrasara.com/2009/06/08/t%e1%bb%ab-ch%e1%bb%91i-li%e1%ba%bfm-h%e1%ba%a1t-tro-qua-kh%e1%bb%a9-nguy%e1%bb%85n-hoang-nam-lam-d%c6%b0%e1%bb%a3c-gi-cho-th%c6%a1/

(9) https://trangchunhat.wordpress.com/2015/04/26/giac-mo-trang-tho-pham-van-phuong/

(10) Nguyễn Lệ Uyên. http://t-van.net/?p=17451

Các tài liệu tham khảo:

Những bài thơ do một số nhà thơ cung cấp. Nhân đây xin được bày tỏ lòng biết ơn của tác giả đến tất cả.

Gaston Bachelard, The poetics of space, Beacon, 1969

Mieke Bal, Narratology, Introduction, University of Toronton, 1985

Thi Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt nam 1945- 1985, Quê Mẹ, 1993

Caroly Forché, Against Forgetting, Norton, 1993

J.D. Mc Clatchy, The vintage book of contemporary world poetry, Vintage, 1996

Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Giáo dục, 1998

Nhóm Việt Thường, Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000, Văn Mới, 2000

26 Nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư, 2002

Nguyễn Bùi Vợi, Quang Huy, Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Thơ trữ tình, Giáo Dục, 2005

Jennifer Ashton, From modernism to postmodernism, Cambridge Press, 2005

Nguyễn Hưng Quốc, Thơ con cóc và những vấn đề khác, Văn Mới, 2006,

Agnieska Gutthy, Exile and the narrative/ poetic imagination, Cambridge Scholars, 2010

Võ Phiến, Văn học miền Nam tổng quan, Người Việt Books, 2014

Du Tử Lê, Phác họa toàn cảnh 20 năm văn học nghệ thuật miền Nam, người Việt Books, 2014

( tác giả gửi cho QTXM từ Canada)


Chuyên mục