Đăng bởi: Ngô Minh | 12.06.2015

BỐN MƯƠI NĂM THƠ HẢI NGOẠI (5- tiếp theo và hết)

BỐN MƯƠI NĂM THƠ HẢI NGOẠI (5- tiếp theo và hết)

Chương 5

ĐI TÌM TIẾNG NÓI MỚI

Nguyễn Đức Tùng

( Bài gửi cho QTXM từ Canada)

Gánh nặng nếu biết cưu mang sẽ trở thành ánh sáng.

The burden which is well borne becomes light.

…..

  vài ví dụ về hậu hiện đại, thơ tân hình thức và khuynh hướng khác

Làm sao để phân biệt một bài thơ hiện đại và một bài thơ hậu hiện đại? Không dễ.

Je t’ai ciré,

Je t’ai frotté,

J’ai pris plaisir

A te donner ma peine,

Ta đánh bóng em

Ta chà xát em

Ta lấy làm vui

Tặng nỗi đau cho người

(Eugène Guillevic, Un Bahut, Cái tủ buýp phê)

Hình dung thấy một tình cảm mãnh liệt, trong bàn tay, trong hành vi chà xát, trong sự đau đớn, trong nỗi giận dữ, nhưng đó là một lực đi có định hướng. Hiệu dụng của nó rõ ràng.

Talking fancy

Without much to

drink

Nói chuyện ba hoa

Mà chẳng có gì

Để uống nhâm nhi

(Lee Ann Brown)

Toàn bài thơ chỉ có ba câu, phá vỡ tính nghiêm nghị của mục đích, bộc lộ tính chất của sự vật một cách hài hước. Nhưng đây không phải là sự hài hước do tác giả mang lại. Mà như thể là một tính chất cố hữu của các sự vật. Như vậy đặc tính của thơ hậu hiện đại là khó thương, phá bĩnh, cười cợt, tấn công cái chính thống bằng cái lẻ tẻ, vụn vặt, nhưng ác nghiệt thay, chính xác. Trong thơ hậu hiện đại Việt Nam hiện nay, sự hài hước xuất phát từ tác giả, hơn là từ sự vật. Ngay cả trong những trường hợp thành công nhất, như thơ Nguyễn Đăng Thường.

(vì hồ lệ đã cạn rồi)

vậy xin mượn lời

alan paton

nhà văn nam phi

cập nhật

gởi

việt nam và tây tạng

“chửi lên đi, ôi quê hương yêu dấu”

Khuynh hướng mỉa mai, cái nhìn từ bên lề được thúc đẩy bởi chủ nghĩa hậu hiện đại làm cho nhà thơ có khả năng đứng lên trên lịch sử hay đứng ngoài lịch sử, từ chối tham dự vào lịch sử như những nạn nhân. Người đọc thơ cần hiểu rằng một nền thơ có những xuất phát riêng biệt, ngược với một nền văn học tuyên truyền, chỉ có khả năng tốt nhất trình bày như một sự đối lập, cái tốt đẹp dịu dàng của tình yêu và của cái đẹp.

Những người giới thiệu và xiển dương thơ Tân hình thức, đặc biệt là nhà thơ Khế Iêm, đã làm dấy lên một phong trào đổi mới hình thức, khoảng những năm đầu thế kỷ 21 ở California, lắng xuống một thời gian, rồi hồi phục trở lại khi được giới thiệu rộng rãi ở trong nước, với sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều nhà thơ trẻ và tài năng, nhất là những nhà thơ quy tụ quanh tạp chí Sông Hương, và đồng thời, trên tờ báo giấy cũng do Khế Iêm chủ trương ra hai tháng một kỳ.

Con mèo đen có linh hồn và chiếc

xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức

dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi

sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;

con mèo đen có đôi mắt bằng đất

sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ

mở ra và không bao giờ nhắm lại,

trong lúc lên thang xuống thang, mang theo

linh hồn và chiếc xương sườn của tôi

(Khế Iêm) (9)

Bốn đặc tính chính yếu của thơ Tân hình thức: kể chuyện, vắt dòng, hợp vần và cấu trúc khá cân đối.

Có một khuynh hướng mới. Ngôn ngữ rộng rãi, trương nở, dàn trải, mênh mang, gần với chủ nghĩa tối đa hóa (maximalism), với nhiều chú thích, chi tiết phụ tùng, các gợi ý đa văn bản và liên văn bản, trong thơ nhiều người: Đinh Linh, Ngu Yên, Đỗ Quyên, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Hoàng Tranh, Uyên Nguyên, Nguyễn Đăng Thường. Và Thường Quán:

Trưa như ở một bến xe

bữa ăn của một người xếp xong va li

giữa những tiếng còi đang đổ về từ Lục Tỉnh

tiếng rì rầm của trăm thứ động cơ khác đang quay, xa hơn

Sài Gòn của những cuốn sách treo ngon trên vỉa hè

bạn đứng đó và đi quanh

chẳng một anh tiên tri nào

báo động sớm ngày sẽ vất chụm lửa hủy diệt

Chủ nghĩa tối đa có thể xem là biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại, như trong tiểu thuyết với các trình bày chi tiết, các nguồn thông tin phối hợp. Mặt khác, chủ nghĩa tối thiểu (minialist poetry), có vẻ ngược với khuynh hướng trên, thực ra là sự bổ sung cho chủ nghĩa hậu hiện đại.

Diện mạo của thơ ca hải ngoại là diện mạo của thơ Việt Nam trên một không gian đặc biệt: ngoài Việt Nam, phân tán khắp nơi, di chuyển mọi lúc, khác nhau nhiều đến nỗi chỉ có thể tập hợp lại dưới một danh từ hay một tính từ, hải ngoại.

buổi sáng

mail tới lai rai

lửng lơ chốn ảo

hai bài ngẫu nhiên

một thơ tình, một bài thiền

nhặt tinh mơ sớm

gợi phiền lụy xa

(Vũ Hoàng Thư)

 

sự tiếp nhận, lời kết

Thành tựu của thơ Việt hải ngoại trong khoảng mười lăm năm gần đây tập trung nhất vào những trường hợp làm mới bút pháp (10). Tuy nhiên tất cả đều khó đọc hơn trước.

T. S. Eliot: Hầu như chắc chắn là các nhà thơ của nền văn minh chúng ta, như thể nó đang tồn tại lúc này, phải là các nhà thơ khó đọc. (11). Như thế Eliot cho rằng thời đại chúng ta đủ sức để hiểu sự phức tạp của ngôn ngữ, các biến đổi của nó, con người ngày càng phải trở nên thông minh hơn và tinh tế hơn, nhu cầu của họ không những ngày một rắc rối hơn mà sự thỏa mãn những nhu cầu rắc rối ấy cũng phải ngày càng phức tạp hơn. Theo tôi đó là định nghĩa của sự khó khăn trong thơ. Liệu sự phong phú của hình ảnh, sự giàu có của ngôn ngữ có tăng lên cùng với mức độ khó của thơ, và ngược lại hay không?

Khi tiếng đàn Tính Tịch Tình Tang không

còn mê hoặc lòng người bằng tiếng đồng

tiền Leng Keng dễ hiểu,

Khi Thạch Sanh vỡ lẽ cả đời mình chưa bao giờ

có đất, khi đi đốn củi trong rừng cũng như

khi về lầu son làm công chức

(Tiếng đàn mới của Thạch Sanh)

Lê Đình Nhất Lang có khả năng viết những câu thơ như văn xuôi, dễ bị bỏ qua, nhưng chứa nhiều nội lực. Vấn đề của thơ hôm nay là tính chất riêng tư của nó. Gần như chống lại khuynh hướng riêng tư này, nhà thơ T.S. Eliot, như được trích dẫn ở đoạn trước, đã từng đưa ra tuyên bố rất đẹp rằng, tính chất riêng tư sẽ mau chóng bị hủy hoại, nếu chúng không được gói lại trong nước đá hay trong muối.

Lằn ranh phân biệt giữa thơ dở và thơ hay, giữa một nhà thơ tài năng và một nhà thơ tập sự, thậm chí giữa một nền văn học thực sự và một nền văn học nhảm nhí ngày càng trở nên mơ hồ, rối loạn. Điều này không những đúng cho thơ mà còn cho cả văn xuôi hải ngoại, cho văn học trong nước, kể từ năm 1975 đến nay. Trong một bối cảnh như thế, các nhà phê bình không có nhiều chỗ đứng. Hầu hết đều chọn im lặng. Sự trao đổi qua lại giữa các nhà thơ hoặc giữa những người viết nói chung thường có tính chất thù tạc.

Đọc thơ không hề là việc dễ dàng. Theo quy ước một bài thơ gồm có những đơn vị căn bản là câu thơ. Câu thơ dễ nhận ra trong các thể thơ có vần, trong thơ tân hình thức, nhưng khó nhận ra hơn trong thơ tự do. Khi đọc một câu thơ được đặt đúng phương vị giữa các câu khác, bạn có cảm tưởng như nó chuyển đi một năng lượng, năng lượng ấy được đẩy xa tới bên bờ mép, và thu hồi lại lập tức. Nhưng nếu câu thơ được ngắt không đúng chỗ, hoặc quá sớm hoặc quá trễ, hoặc không cần thiết, bạn có cảm giác luồng năng lượng vượt ra khỏi bờ mép, rơi xuống phung phí tản mạn.

Chính là bằng những biểu đạt mới, phi quy ước, mà con người được tự do. Nhưng sự tiếp nhận sẽ khó khăn. Bài thơ sau đây của Đinh Linh, viết về sự kiện 9-11, đăng trên Talawas mấy năm trước:

Hắn có thân hình vạm vỡ

Với cả ngàn cái nứng lên

Làm rực bầu trời về đêm

Nhưng không gì nứng cao hơn

Đôi cặc sinh đôi.

đã gây ra cảm xúc rất mạnh ở một số người đọc. Có lẽ đối với họ bài thơ của anh là sự xúc phạm. (12).

Nhưng đọc thơ là một kinh nghiệm đặc biệt mà các hoạt động khác không thể mang lại. Ngày xưa con người sống chậm, họ chỉ có một quê hương, một trái tim, một bài thơ để nhớ. Ngày nay con người sống vội, họ có hơn một quê hương, hơn một mối tình. Và cần nhiều bài thơ, viết khác. Trong khi ý nghĩa của ngôn ngữ là cốt lõi thì tác dụng thẩm mỹ đóng vai trò quan trọng không kém. Cũng không thể bỏ qua một điều: thơ có nhiệm vụ đem lại sự vui thú cho người đọc.

Trong lúc chuẩn bị tiểu luận này, tôi lật vài tờ báo ra xem lại và đọc:

Hạnh phúc

Là được sống với trái tim mới lạ

Cởi bỏ hận thù, một cõi xót xa

Ngồi xuống hát ca

Với cây cỏ đụn tranh mái nhà em bé

Sao lòng canh giữ mãi

Đó là những câu thơ trong bài Hạnh phúc mới, trên Làng Văn, tháng 3 năm 1992. Một tác giả chắc bây giờ ít người biết: nhà thơ Nguyễn Lý.

Năm 1992, bạn còn nhớ không?

Bài thơ trên giờ chỉ còn nằm lại giữa hai trang giấy ố vàng, bên lề có chữ viết tay loáng thoáng như sợi tóc cũ, đã ngừng xuất bản. Tác giả có lẽ không tiếp tục sáng tác nữa, nhưng khi đọc nó hôm nay tôi ngạc nhiên và nghĩ ngợi. Nó nói đúng tâm trạng của chúng ta, thời điểm ấy.

Tại sao thời điểm ấy?

Khái niệm trung tâm và ngoại vi đối với người Việt ngày nay không còn đơn thuần là mối quan hệ giữa chính thống và phản kháng, giữa cái đa số và cái thiểu số, giữa truyền thống và cách tân. Ví dụ: trên thế giới, nhiều thành tựu đỉnh cao là tác phẩm bị cấm đoán. Khi các nhà thơ viết về dân tộc mình, họ phải tìm cách vượt qua các biên giới, ngăn cách một bên là các điều kiện sống thực tại của nhà thơ ấy, sự may mắn kèm theo bất hạnh, công việc, lo toan, nhà cửa con cái, những nhiệm vụ cụ thể của người dân nước sở tại, bổn phận công dân mới, của một không gian đô thị, hiện đại và lạnh lùng, phân cách, và một bên là ngôn ngữ thơ ca, một thứ ngôn ngữ không dùng trong giao tiếp hàng ngày, nhưng lại cần thiết cho những giao tiếp tâm hồn, và riêng trường hợp người Việt, cần cho những giao tiếp lịch sử, thương thảo với quá khứ trước cánh cửa tương lai. Trong khi ngôn ngữ thơ có thể chuyển hóa những kinh nghiệm đời thường thành một ngôn ngữ giàu có, đặc biệt, nén chặt, có tính mặc khải, thì nó được giao một nhiệm vụ lớn hơn là truyền đi những tang chứng của lịch sử, là mở những cánh cửa đã khép chặt từ lâu giữa người Việt và người Việt. Tôi tin rằng thơ hải ngoại không chết đi, như đã từng được dự đoán bởi nhiều người, và các nhà thơ hải ngoại hiện nay, được bổ sung bởi thế hệ mới và bởi những nhà thơ đến từ trong nước, có thể làm được điều mà những nhà thơ đi trước họ chưa hoàn tất: thay đổi cách viết để sống còn. Đó là ghi lại một cách giàu có, trung thực và táo bạo những yếu kém, bất hạnh và những vận hội mới của dân tộc, trong hiện tại. Thơ Việt sẽ đi con đường dài, nhưng hiện nay nó chỉ có thể đi từng bước một. Tôi viết những dòng này ngay sau buổi tối 6.6.2015 ngồi nghe Khánh Ly hát Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn, nhân dịp văn nghệ bốn mươi năm người Việt lưu vong. Gia tài của mẹ là nước Việt buồn. Bài hát được ca sĩ trình bày lần đầu năm 1969. Gia tài ấy dù thế nào cũng sẽ được truyền xuống, giữ gìn, mang theo, gởi lại, chuyển đi, bởi tất cả chúng ta, bởi mỗi người viết và người đọc. Bằng cách nào?

Bằng cách làm tươi mới ngôn ngữ mỗi ngày, lịch sử chính là bây giờ và nơi đây.

Nguyễn Đức Tùng

 

Chú thích của chương 5

(*) Người viết trân trọng cám ơn các thi sĩ đã hết lòng ủng hộ, gởi bài hoặc giới thiệu. Với những vị có thơ hoặc văn trích đăng mà chúng tôi đã không có dịp liên lạc, xin được miễn thứ và xin bày tỏ lòng tri ân nơi đây. NĐT.

(1)

 

“Đàn bà mà không mặc áo lót là không biết làm vợ”

người tình nhắc tôi thường xuyên

phụ nữ Việt Nam tứ đức

công, dung, ngôn, hạnh

nhưng riêng anh thì vẫn lui tới mấy “quán cà phê bikini” đều đều,

tự do ngâm mộ những cô gái mặc áo dài may bằng loại vải “tơ mỏng”,

lặp đi lặp lại khen khoa học hiện đại biết cách mô cấy vú nhân tạo.

“Em cũng nên đi sửa đi,” anh nói.

Cuối cùng thì chúng tôi chia tay.

Tôi cũng chẳng thèm tìm hiểu coi có phải vì ngực tôi lép hay không.

Tôi không bao giờ tự sửa sang mình cho thích hợp với đòi hỏi của đàn ông.

Đôi khi tôi cũng mặc áo lót, nhưng tôi không có ý định làm vợ.

(Đỗ Lê Anhdao)

Bài thơ song ngữ:

“Women Who Don’t Wear Bras Can’t Be Wives”

this was told to me

by my first lover

handsome, charming, Vietnamese

who called himself a traditionalist,

swore by 555 cigarettes and French ca phe

he often reminded me

the 4 virtues of a Vietnamese woman

labor, beauty, speech, and conduct

but he himself always frequented “bikini coffee shops”,

freely “admired” the young women in transparent ao dai’s,

repeatedly thanked modern science for implants.

“You should get yours done too,” he suggested.

We eventually broke up.

I didn’t bother to find out whether it was due to my modest bust size.

I never fixed myself to conform to men’s expectations.

Sometimes I wear a bra, but I do not plan to get married.

(2) http://www.gio-o.com/VuQuynhHuongDoiGio.html

(3) Genette, Narative Discourse, NXB Cornell, 1972, p161

(4) Đỗ Quyên, “Văn học Việt ở ngoài nước trong vài năm qua”

http://vietvan.vn/vi/bvct/id1388/Van-hoc-Viet-o-ngoai-nuoc-trong-vai-nam-qua-/

(5) Inrasara, Thơ đến từ đâu? – một tác phẩm hậu hiện đại lớn bất toàn. http://inrasara.com/2010/07/21/inrasara-th%C6%A1-d%E1%BA%BFn-t%E1%BB%AB-dau-m%E1%BB%99t-tac-ph%E1%BA%A9m-h%E1%BA%ADu-hi%E1%BB%87n-d%E1%BA%A1i-l%E1%BB%9Bn-b%E1%BA%A5t-toan/

(6) Andrew Schelling, The Wisdom Anthology of North American Buddhist Poetry, Wisdom Publications, 2005, p. 183

(7) Lời nói đầu, Chữ, Tiền Vệ, 2005, Dẫn theo Inra Sara, http://inrasara.com/2009/12/14/th%C6%A1-vi%E1%BB%87t-t%E1%BB%AB-hi%E1%BB%87n-d%E1%BA%A1i-d%E1%BA%BFn-h%E1%BA%ADu-hi%E1%BB%87n-d%E1%BA%A1i-16-nguy%E1%BB%85n-hoang-tranh/

(8) https://trangchunhat.wordpress.com/2015/04/05/tho-thoi-gian-trich-truong-ca-do-quyen-2/

(9) Con Mèo Đen là một trong ba bài thơ hay nhất trong tháng 12-2007 của Diễn đàn thơ Mỹ Poetry.about (http://poetry.about.com)

(10) Thơ hiện đại, thơ nữ quyền, thơ tối đa hóa, thơ hậu hiện đại, thơ sinh thái, thơ tân hình thức, thơ trữ tình chính trị, thơ tối giản, trường ca, với những tác giả tiêu biểu không thể nhắc hết ở đây.

(11) Garick Davis, Praising It New, NXB Swallow, 2008, p152.

(12) phivu56 nói:

12/09/2009 lúc 9:12 sáng

“Là một người Mỹ gốc Việt, vào năm 2001, tôi “đau” nỗi đau của “Hoa Kỳ” vì đất nước Hoa Kỳ đã “cưu mang” tôi và gia đình của tôi khi tôi rời Việt Nam vì những người Việt Nam Cộng Sản tuy cùng nguồn gốc nhưng đã làm cho gia đình tôi phải tan nát. Không biết rằng ông nhà thơ Mỹ gốc Việt này có gì “thù hằn” với Hoa Kỳ mà “thở” ra những câu thơ như thế này. Tại sao ông không ở lại Việt Nam để được hưởng “độc lập tự do” mà phải sang Hoa Kỳ? Đừng làm cho những người Mỹ gốc Việt chúng tôi phải mang tiếng “vong ân bội nghĩa” với Hoa Kỳ, một quốc gia đã cưu mang những người “tỵ nạn Cộng Sản” chúng tôi. Bây giờ ông có thể trở về Việt Nam như Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy cũng chưa muộn lắm đâu.”

 

Các tài liệu tham khảo:

Gaston Bachelard, The Poetics of Space, Beacon, 1969

Mieke Bal, Narratology, Introduction, University of Toronton, 1985

Thi Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt Nam 1945- 1985, Quê Mẹ, 1993

Caroly Forché, Against Forgetting, Norton, 1993

J.D. Mc Clatchy, The Vintage Book of Contemporary World Poetry, Vintage, 1996

Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Giáo dục, 1998

Nhóm Việt Thường, Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000, Văn Mới, 2000

26 Nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư, 2002

Nguyễn Bùi Vợi, Quang Huy, Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Thơ trữ tình, Giáo Dục, 2005

Jennifer Ashton, From Modernism to Postmodernism, Cambridge Press, 2005

Nguyễn Hưng Quốc, Thơ con cóc và những vấn đề khác, Văn Mới, 2006,

Agnieska Gutthy, Exile and the Narrative/ Poetic Imagination, Cambridge Scholars, 2010

Võ Phiến, Văn học miền Nam tổng quan, Người Việt Books, 2014

Du Tử Lê, Phác họa toàn cảnh 20 năm văn học nghệ thuật miền Nam, Người Việt Books, 2014

 


Chuyên mục